Rup halin ( about me)

Ảnh của tôi
Dalam tanâh Yuen hu anâk Cam saong nagar Cam

Sang/Home

Thứ Năm, 21 tháng 4, 2011

PARIS TÔN VINH KHO TÀNG NGHỄ THUẬT ĐIÊU KHẮC CHAMPA



Có những vương quốc đã một thời vang tiếng về nghệ thuật điêu khắc, mà không ai có thể trù dập lòng luyến tiếc một giấc mơ không bao giờ mất đó là vương quốc Champa. Dựa theo tư liệu được tìm thấy khắc ghi trên bia đá, cũng như sử liệu Việt Nam và Trung Quốc viết về Champa cho biết vương quốc Champa được thành hình vào cuối thế kỷ thứ 2 sau công nguyên. Lãnh thổ vương quốc này trải rộng từ Tây Nguyên đến đồng bằng duyên hải thuộc miền Trung Việt Nam.


Ngoài nền văn minh đã có từ người dân bản địa ngay từ khi lập quốc vào năm 192, Champa còn ảnh hưởng hai nền văn minh Ấn Ðộ và Trung Hoa. Bắt đầu từ thế kỷ thứ 4 tại kinh đô Simhapura (Thành Sư tử) ở Trà Kiệu (phía nam đèo Hải Vân) có dấu ấn nền văn minh Ấn Ðộ qua kiến trúc các đền đài bằng gạch, pho tượng bằng đá. Từ đó Trà Kiệu đã trở thành trung tâm đầu tiên truyền bá Bà La Môn giáo lẫn văn tự và ngôn ngữ Chăm. Trong khi đó phauat giáo đại thừa có thể truyền bá đến muộn hơn, nhưng không thể lấn át hệ phái Siva mà người dân coi như là quốc giáo.



Năm 1471, kinh đô Vijaya thất thủ bởi nam tiến của Ðại Việt, triều đình Champa dời kinh đô vào Panduranga (Phan Rang). Thánh địa Mỹ Sơn là những khu di tích đã từng là trung tâm sinh hoạt chính trị, văn hóa và tôn giáo của dân tộc Champa biị bỏ hoang không có chủ nhân chăm sóc. Sau hơn 4 thế kỷ chìm lấp trong rừng núi, mãi đến năm 1885, nhà khảo cổ học Pháp tình cờ phát hiện được các quần thể tháp ở Mỹ Sơn, Chiên Ðàn, Khương Mỹ, Bằng An, Quảng Nam-Ðà Nẳng) thì họ nghĩ ngay đến việc sưu tầm các tác phẩm điêu khắc mà trước đó dường như không ai lo việc bảo quản. Thời đó các tác phẩm điêu khắc được phát hiện đem về tập trung tại công viên thành phố Ðà Nẳng. Ðến năm 1898 Việnn Viễn Ðông Pháp tại Hà Nội phái nhân viên đến nghiên cứu.Sau đó được sự bảo trợ của Viện Viễn Ðông Pháp, bảo tàng điêu khắc Chăm tại Ðà Nẳng được khởi công xây dựng vào năm 1915.


Sau khi Pháp rút khỏi Việt Nam 1954, chiến tranh Nam-Bắc Việt Nam lại tái diễn, các di tích đồ sộ nằm ở khu vực Mỹ Sơn,Trà Kiệu, Ðồng Dương, Hương Quế, bị hàng loạt tấn bom của không lực Việt Nam Cộng Hòa tàn phá. Sự điên cuồng của chiến tranh, sự tàn nhẫn của thời gian đã làm cho di sản văn hóa Champa không có chỗ đứng.

Nghệ thuật điêu khắc Champa tại Viện bảo tàng Guimet 

Do sự cổ động từ các đoàn thể khoa học Việt Nam lẫn quốc tế, năm 1990 mới được trường Viễn Ðông Pháp tiến trình hợp tác với Việt Nam để khôi phục và trùng tu nghệ thuật điêu khắc Chăm ở viện bảo tàng Ðà Nẳng và một số khu vực khác. Ðể tiếp nối phổ biến văn hóa và nghệ thuật Chăm đến với thế giới, việc triển lãm với chủ đề nằm trong chương trình hợp tác song phương giữa hai chính phủ Việt-Pháp kể từ năm 2002. Sau đó chinh phủ chọn Paris là nơi triển lãm Nghệ thuật điêu khắc Champa, được tổ chức tại Viện bảo tàng Guimet, tức viện bảo tàng quốc gia các nền nghệ thuật Á Ðông, từ 12-10-2005 đến 9-1-2006.


Hai đặc điểm quan trọng trong cuộc triển lãm nghệ thuật điêu khắc Champa tại Paris năm 2005, là bức thư ngõ của Jacque Chirac tổng thống Cộng Hòa Pháp và Trần Ðức Lương chủ tịch nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.Trong bức thư ngõ của tổng thống Pháp, ông Jacque Chirac cho rằng cuộc triển lãm về nghệ thuật Champa đã nói lên tinh thần tích cực của chính phủ Pháp trong tinh thần trao đổi văn hóa giữa hai chính phủ Pháp-Việt. Tổng thống cũng cho rằng các tác phẩm điêu khắc Champa đã trở thành một di sản nghệ thuật của Việt Nam. Những tác phẩm đó mang một giá trị nghệ thuật rất cao trong nền điêu khắc thuộc khu vực Ðông Nam Á. Cuộc triển lãm về Champa đã chứng minh một cách cụ thể nền văn minh cao độ của vương quốc champa thời cổ.



Trong bức thư ngõ của chủ tịch nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, ông Trần Ðức Lương cho rằng triển lãm về nghệ thuật Champa tại Paris năm 2005 đã nói lên tinh thần hợp tác văn hóa thân thiện giữa hai nước Pháp-Việt.Cuộc triển lãm này, theo ông Trần Ðức Lương sẽ giúp cho quí khách tiếp thu thêm giá trị nghệ thuật điêu khắc Champa trãi qua hằng bao thế kỷ. Ngoài cuộc triển lãm về nghệ thuật, Viện bảo tàng Guimet cũng tổ chức nhiều buổi hội thảo tại Paris để bàn về những vấn đề liên quan đến văn hóa, lịch sử và nền văn minh Champa. Cũng cần thông tin rằng, cuộc triển lãm này có xuất bản một tác phẩm: Tresors d'art du Vietnam la sculpture du Champa Ve-XVe, Guimet musee national des Artes Asiatiques, 2005 (Kho tàng nghệ thuật Việt Nam :nền điêu khắc Champa từ thế kỷ thứ 5 đến thế kỷ thứ 15, xuất bản Viện bảo tàng quốc gia Guimet các nền nghệ thuật Á Ðông, 2005).

Ðây là lần đầu tiên các tác phẩm điêu khắc Champa được rời Việt Nam đến Pháp. Du khách sẽ tìm thấy khu triển lãm gồm 96 bảo vật, trong đó có 48 cái đem từ Viện bảo tàng Ðà Nẳng, 7 cái từ Bảo quản di tích Mỹ Sơn, 14 cái từ Viện bảo tàng lịch sử Việt Nam, 2 cái từ Viện bảo tàng Rietberg (Thụy Sĩ), 1 cái từ Viện bảo tàng Lyon, 24 cái ở Viện bảo tàng Guimet. Trong các bảo vật được trưng bày từ thế kỷ thứ 5 đến thế kỷ 15, trổi hơn hết là pho tượng nữ thần duyên dáng được coi là ; tượng thần gác cửa Dvarapala cũng không kém nổi bật đứng sừng sững và uy nghi (cao 2m, cuối thế kỷ 9 đến đầu thế kỷ 10, ở Ðồng Dương, Quảng Nam) ; các bức tượng thần linh tối cao Siva, Visnu, giữa Siva và Visnu người ta tìm thấy Siva chiếm ứu thế nhất trong nghệ thuật điêu khắc Champa. Ngoài ra còn có tượng Phật, sở dĩ có pho tượng Phật giáo ở rải rác trong khu vực Ðồng Dương, đã chứng minh rõ rệt phật giáo phát triển mạnh mẽ ở Champa từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 9, mà chính quyền Champa thời đó đã chú tâm rất nhiều đến công trình xây cất các đền đài Phật giáo. Trong suốt chiều dài của lịch sử, nền văn minh khó mà tránh được sự điêu tàn khi đã lên tới cực độ. Chính vì thế qua các công trình kiến trúc vay mượn từ nền văn minh Ấn Ðộ hoàn toàn bị sụp đổ cùng thời điểm vào cuối thế kỷ thứ 15 như: Mỹ Sơn (Champa), Angkor (Cao Miên), Borobudur (Nam Dương).

Những ấn tượng sâu sắc và mạnh mẽ tiềm tàng trong kho tàng nghệ thuật điêu khắc Champa, không ngớt lòng thôi thúc các nhà bảo quản Việt Nam đã và đang cổ động góp phần trùng tu và bảo tồn vô giá còn đầy bí ẩn chưa khai thác đúng mức

Dominique Nguyen
(Nguồn: Champaka)

"GIẾNG THẦN" THỜI CHĂM PA Ở KỲ ANH - HÀ TĨNH


                                       
Xung quanh 15 "giếng thần" thời Chăm Pa mới được phát hiện tại Hà Tĩnh, đã có không ít câu chuyện được người dân lưu truyền và đồn thổi. Thậm chí, nhiều người hiếu kỳ ở khắp nơi kéo về tìm hiểu thực hư. Đằng sau những "giếng thần" có điều gì bí ẩn?
Ông Hồ Bách Khoa, Phó phòng di sản, Sở VHTH&DL nhiều năm nghiên cứu về giếng Chăm Pa tại Hà Tĩnh nhận định: Những giếng Chăm Pa vừa phát hiện có niên đại xây dựng vào khoảng trước thế kỷ X. Các giếng đều hình vuông được ghép bằng đá cuội và đá phiến... Đến bây giờ, chúng tôi cũng chưa lý giải được tại sao giếng có mạch nước ngầm lớn như thế. Bên cạnh đó nước luôn trong xanh, mát ngọt tự nhiên và không bao giờ cạn. Đây là một điều bí ẩn cần phải nghiên cứu lâu dài mới lý giải được.
Hiện 15 giếng vừa phát hiện đều xây hình vuông, có một giếng đã sửa chữa lại hình tròn nhưng phía đáy vẫn hình vuông. Ngoài ra, trong kỹ thuật xây dựng giếng Chăm Pa, có một thắc mắc chưa lý giải được là những tấm gỗ lát phía dưới làm bằng gỗ gì? Dù đã trải qua hàng ngàn năm ngâm dưới nước nhưng gỗ vẫn còn nguyên vẹn. Hạn mấy cũng không cạn?
Một trong những bí ẩn mà cho đến giờ chưa có thể lý giải được, đó là tại sao hàng trăm năm qua, ở giếng thần, nguồn nước luôn trong xanh, rất ngọt. Dù độ sâu của giếng chỉ từ 2,5 đến 5m nhưng chưa một lần cạn?
Tất cả 15 giếng vừa phát hiện đều có một đặc điểm: Hầu hết các giếng đều nằm gần nguồn nước mặn nhưng nước luôn trong xanh, mát ngọt tự nhiên. Điều đáng nói là ở bên cạnh, giếng các hộ dân nhà nào cũng bị nhiễm phèn, nhiễm mặn. Như giếng thời Chăm Pa ở làng Mai Lâm cách nguồn nước mặn chừng 50m. Giếng được ghép đá theo hình vuông, đường kính rộng 2,2m, phía dưới đáy được làm bằng khuông gỗ, bốn phía ghép bốn tấm gỗ cao 80cm dù có vào mùa đại hạn, cây cối khô héo, ao hồ sông suối, đồng ruộng nứt nẻ, giếng các hộ dân khô cạn, nhưng giếng thần Mai Lâm với độ sâu 3m nhưng chưa một lần bị cạn, cho dù mùa đại hạn đỉnh điểm, cả làng giếng sâu đến bao nhiêu mét đều cạn hết nước.
Giếng thời Chăm Pa ở làng Mai Lâm cách nguồn nước mặn chừng 50m, độ sâu 3m, giếng được gép đá theo hình vuông, đường kính rộng 2,2m, phía dưới đáy được làm bằng khuông gỗ, bốn phía gép bốn tấm gỗ cao 80cm, chiều rộng 1m nhưng không hề khô cạn, đây là một điều bí ẩn mà người đời xưa xây dựng.
Ông Lê Văn Trực (80 tuổi), ở làng Mai Lâm, người gần cả cuộc đời ăn nguồn nước từ giếng kể: Ngày trước mỗi lúc làng tổ chức vét giếng nhưng chưa một lần nào múc được cạn nước hết. Lúc thanh niên tôi được làng cử xuống giếng làm vệ sinh, gầu múc liên tục nhưng thấy bốn góc dưới giếng có bốn cái mạch nước chảy ra to lắm, múc bao nhiêu cũng không hết nước được. Sống đến chừng này tuổi rồi, tôi chứng kiến tất cả về giếng nhưng không một ai trong làng kể lại hay lý giải được tại sao người xưa lại chọn địa điểm đào giếng mà nước không bao giờ cạn.
Tất cả 15 giếng được phát hiện tại Hà Tĩnh đều có một đặc điểm là sâu vài ba mét nhưng nước luôn trong xanh và mát ngọt tự nhiên, hầu hết các giếng đều nằm gần nguồn nước mặn. Nơi cửa sông, cửa biển có tàu ra vào nhiều và cả vùng sống quanh giếng thần không bao giờ cạn nước nhưng khi đào giếng nhà nào cũng bị nhiễm phèn, nhiễm mặn.
"Giếng thần" từ bao đời nay được người dân sử dụng hàng ngày trong cuộc sống. Hiện 15 giếng thì có 5 giếng nằm trong nhà của 5 hộ dân và được họ sử dụng phục vụ sinh hoạt gia đình, vào mùa hạn hán những giếng này cả làng kéo nhau đến lấy nước về sinh hoạt.
Tại xóm Tân Giang, xã Kỳ Ninh, huyện Kỳ Anh, có hai giếng thần, một giếng nay được người ta sửa chữa và xem đó là báo vật quý của làng nay người dân không còn sử dụng hàng ngày nhưng nước luôn trong xanh. Còn một giếng sâu gần 3m nằm trong nhà của ông Mai Văn Phong. Giếng cách nguồn nước mặn chừng 70m, trong vùng ai đào giếng khi có nước điều bị nhiễm phèn, nhiễm mặn. Tất cả giếng trong vùng chưa đền mùa hè đã cạn nhưng giếng thần tại nhà ông Phong đang sử dụng luôn thừa nước.
Bà Lê Thị Lan vợ ông Phong nói: "Lạ lắm chú ơi! Cả vùng vào mùa hè các giếng ở đây đều cạn hết nhưng giếng nhà tôi không bao giờ cạn, dù đặt máy bơm, bơm cả ngày lẫn đêm cũng không cạn. Vùng này do nước nhiễm phèn, nhiễm mặn khônh ăn được nên nhà nào cũng phải xây mấy cái bể để hứng nước mưa phục vụ ăn uống chứ ăn nước giếng đào không ăn được rứa mà giếng nhà tôi thì không bị gì hết, nấu nước chè rất ngon, nấu cơm, thức ăn không bị gì cả".
Không thể lý giải nổi "giếng thần"
Điều kỳ lạ cho đến ngày hôm nay là những cư dân sống xung quanh "giếng thần" vẫn sử dụng nguồn nước phục vụ cuộc sống gia đình, vì nước ở giếng rất trong sạch. Phải chăng điều này thể hiện kỹ thuật chọn long mạch và sự am hiểu về luật phong thuỷ khi người Chăm Pa đào và xây dựng những giếng này?
Đến bây giờ nhiều người luôn thắc mắc một điều, tại sao người xưa có kỹ thuật chọn địa điểm xây giếng có nguồn nước ngầm nhiều và trong xanh, mát ngọt không bao giờ cạn?. Đây những câu hỏi mà từ bậc cao niên trong làng cho đến nhiều nhà nghiên cứu về đây khảo sát nhưng chưa có lời giả đáp chính xác về những bí ẩn của "giếng thần".
Theo ông Hồ Bách Khoa, Phó phòng di sản, Sở VHTT&DL Hà Tĩnh tâm sự: Mạch nước, kỹ thuật xây dựng của người Chăm Pa đến nay đã hàng ngàn năm rồi nhưng đến thời điểm này chưa có một nhà nghiên cứu nào lý giải được điều đó, đây là một điều bí ẩn về kỹ thuật xây giếng của người xưa.
Trải bao biến cố thăng trầm lịch sử và quá trình sử dụng, người dân đã có gia cố, tu bổ nhưng kết cấu, chất liệu vẫn không thay đổi. Xã hội ngày một có nhiều bước phát triển, nguồn nước sinh hoạt được thay thế từ nước giếng sang nước máy nhưng có nhiều người dân luôn trung thành sử dụng nước "giếng thần" phục vụ cuộc sống hàng ngày.
Cụ Đinh Xuân Noãn, ở thôn Tân Giang, xã Kỳ Trinh, Kỳ Anh, kể: "Từ đời ông nội cho đến cha tôi khi sinh ra đã có giếng rồi. Vừa qua, có mấy người ở xã đi xa làm ăn, có của ăn của để, về xin các bậc cao niên trong làng sửa lại giếng ở xóm Xuân Hà. Họ mời thầy cúng, nhà ngoại cảm về làm lễ, sửa lại rồi lập một cái bàn thờ ở bên giếng. Nay đã thành thói quen, vào những ngày rằm, mồng một, dân làng đều ra đó thắp hương để thờ "thần giếng".
Cũng theo các cụ cao niên trong làng, "giếng thần" được làm bằng gỗ lim, gỗ trắc hoặc gỗ trầm gió, gỗ được ghép dưới giếng. Tuy nhiên, về cách tìm mạch nước, xây dựng thì không ai hay. Để giải đáp được những bí ẩn bao đời nay của giếng Chòm, giếng ở Mai Lâm cũng như cả 15 "giếng thần" vừa được phát hiện tại Hà Tĩnh, rất cần đến sự vào cuộc của các nhà nghiên cứu chuyên ngành.(Tác giả đã sai khi nói gỗ Trầm Gió: Trầm gió (cây gió bầu) là loại gỗ tạp, ngâm nước thì rất mau mục, chỉ được làm đồ dùng nơi thật khô ráo... CT: Xuanlinh )
Nam Yên 
Theo: doisongphapluat.com.vn