Rup halin ( about me)
Sang/Home
Thứ Bảy, 9 tháng 4, 2011
Thứ Ba, 1 tháng 3, 2011
Thứ Sáu, 25 tháng 2, 2011
Dấu vết Chămpa ở Hoàng thành Thăng Long
Khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long vừa được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới hôm 1-8. Nhân sự kiện này, thử trở lại với những cấu kiện kiến trúc bằng đá hay nghệ thuật trang trí mang phong cách Apsara… để hình dung về sự hiện diện của văn hóa Chăm.
Đầu chim uyên ương bằng đất nung trang trí trên cung điện thời Lý - Trần. |
Voi Chăm ở Thăng Long
Với vai trò là trung tâm chính trị, văn hóa của quốc gia Đại Việt, kinh thành Thăng Long là nơi còn để lại nhiều dấu ấn huy hoàng có liên quan đến voi. Và cũng từ con vật tinh khôn này đã lưu truyền nhiều câu chuyện thú vị về mối quan hệ giữa Đại Việt và Chămpa. Các triều đại như Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hậu Lê... thường dùng voi trong sinh hoạt cung đình. Đến thời Nguyễn, voi được dùng trong chiến đấu nên tượng binh có số lượng nhiều hơn. Voi được mang đến kinh thành Thăng Long từ nhiều nguồn khác nhau nhưng chủ yếu là vật triều cống cũng như nguồn chiến lợi phẩm thu được. Vương quốc Chămpa cũng từng nổi tiếng với việc dùng voi trong chiến trận, hoạt động bang giao, buôn bán và sinh hoạt cung đình. Sử cũ ghi lại nhiều sự kiện tiến cống của Chămpa cho Đại Việt. Cống phẩm của Chămpa phần lớn là voi trắng. Thời nhà Lý, liên tục từ năm 1068 đến năm 1112, cứ đến mùa thu tháng 8 năm nào Chămpa cũng cử người đi sứ tiến cống voi trắng cho nước Đại Việt. Thời nhà Trần, vào mùa xuân các năm 1269, 1279, 1307, Chămpa cũng tiến cống voi trắng cho Đại Việt. Đặc biệt, sử cũ cũng ghi rằng vào mùa xuân năm 1352, vua Chămpa cử sứ giả tên là Chế Nỗ mang cống vật gồm voi trắng, ngựa trắng... dâng cho Đại Việt.
Vũ nữ Apsara trang trí trên bệ tháp thời Lý. |
Voi xuất hiện với màu sắc đầy tính huyền thoại trong các truyền thuyết ở đất Thăng Long. Chùa Phổ Giác ở phố Ngô Sĩ Liên được dân gian gọi chùa Tàu (tàu ngựa, tàu voi), bởi lẽ đây là nơi chăm sóc, nuôi dưỡng voi ở kinh thành Thăng Long. Sau những lần chinh phạt Chiêm Thành số lượng voi mang về Đại Việt cũng không nhỏ. Số lượng voi đông đúc vẫn được duy trì cho đến năm 1688 khi mà W.Dampier vẫn còn thấy “số lượng voi Thăng Long vào khoảng 150 đến 200 con, chúng được cho uống nước và tắm hàng ngày trên dòng sông (sông Hồng)”. Sách sử cho biết từng có một vị hoàng thân nhà Trần cưỡi voi tới khu vực người Chăm gần kinh thành chơi liền ba ngày. Ngôi chùa Tàu được dựng lên ngoài chức năng ban đầu là tàu voi còn là nơi thể hiện tâm linh của người Chăm. Trong tuyển tập văn bia Hà Nội có nhắc đến “miếu Dương Võ”, nơi thờ 3 người quản tượng giỏi chuyên dạy voi đực ở phương Nam (Chămpa).
Dấu tích Chăm ở Hoàng thành
Sự góp mặt của văn hóa Chăm ở kinh thành Thăng Long đã làm phong phú thêm và khẳng định sự dung hợp, thâu nhận các giá trị, tinh hoa văn hóa vào quốc gia Đại Việt thời bấy giờ. Điều đó đã làm cho Hoàng thành Thăng Long thêm tỏa sáng, xứng đáng là di sản văn hóa của nhân loại mà UNESCO đã công nhận, khi cả nước hướng đến Đại lễ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long. |
Khi khai quật di tích Hoàng thành Thăng Long, các nhà khảo cổ học đã phát hiện nhiều dấu tích Chămpa, khẳng định sự có mặt của người thợ Chăm trên Hoàng thành Thăng Long là lịch sử đã chép. Từ những dấu vết kiến trúc ở hố khai quật, các nhà khảo cổ đã phát hiện một phần ngôi tháp nhiều tầng bằng sứ thời Lý với nghệ thuật trang trí khá độc đáo gồm rồng, cánh sen và các phù điêu tiên nữ bay nhảy - phảng phất chút ít phong cách Apsara trong nghệ thuật Chămpa. Những phù điêu bằng sa thạch ở Trà Kiệu - Quảng Nam (thế kỷ X) có tư thế và động tác giống với các vũ nữ trên các ô hộc của mảnh tháp trắng thời Lý ở Hoàng thành Thăng Long. Có thể xem đây là một bằng chứng khảo cổ học về mối quan hệ gắn bó Việt - Chăm từ sau thế kỷ X.
Thần Siva ở Bảo tàng Lịch sử Việt Nam. |
Viên gạch có chữ Chăm cổ. |
Trên kinh thành Thăng Long người ta có thể nhận thấy rất nhiều cấu kiện kiến trúc bằng đá, chủ đạo là sa thạch. Đây là một loại đá rất gần gũi với người thợ Chămpa, loại đá không có thớ, dễ đục đẽo, tạo hình. Gần như toàn bộ các tảng kê cột của kiến trúc Hoàng thành đều bằng đá và được chạm hoa sen rất đẹp, nhất là những tảng kê cột thời Lý. Những bệ tượng tạo hình rồng, đặc biệt là những bậc lan can trang trí rồng, phượng, sóng nước, vân mây cực kỳ tinh xảo của thời Lý chắc chắn có sự can thiệp của người thợ - nghệ sĩ Chămpa. Những nghệ sĩ Chăm mặc dầu thể hiện ý tưởng của người Việt nhưng trên từng nét chạm, nhát đục, vết mài xoa tạo nên những rồng, phượng... của Thăng Long vẫn mang đậm nét những Makara, Garuda, Nagar, Hamsa, Kala... mà họ từng tạo tác ở các đền tháp Chăm quê hương mình. Hình ảnh về chim uyên ương trên những viên ngói úp nóc (thời Lý) được thể hiện hao hao với ngỗng thần Hamsa (vật cưỡi của thần Brahma) trong điêu khắc Chăm. Hai chiếc cánh uyên ương xòe rộng như trong tư thế múa, phần đầu cánh được xoắn lại tạo nên hình cánh cung giống với những đôi cánh của thần điểu Garuda. Viên gạch tháp có tượng thần điểu Garuda là bức tượng hiếm hoi bắt gặp được trong những hố khai quật ở khu vực Văn Lang, Ba Đình, hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam với bố cục tạo hình mang đậm phong cách Chăm. Hai nửa viên gạch duy nhất có khắc ký tự Phạn (Sanskrit) được phát hiện ở Hoàng thành Thăng Long. Hai viên gạch này được xem là bằng chứng về sự góp mặt, tham gia xây dựng hay sản xuất vật liệu cho những công trình kiến trúc cung đình đương thời của người Chăm. Qua đó chứng tỏ người Chăm đã mang đến kinh thành kỹ thuật làm ra những viên gạch đỏ tươi, tạo hình đẹp, cùng với màu đỏ của bộ mái rất Việt xây cất lên những kiến trúc lộng lẫy của đất Thăng Long. Trong hệ thống giếng nước mà các nhà khảo cổ học tìm thấy ở khu khai quật Hoàng thành Thăng Long, có một giếng nước mang niên đại vào thời nhà Trần thể hiện rõ phong cách và kỹ thuật Chăm, cụ thể như cách xếp gạch tựa như các giếng Chăm ở miền Trung.
Giếng cổ tại Hoàng thành Thăng Long. |
Qua các cuộc khai quật khảo cổ học, nhất là phát hiện di tích Hoàng thành Thăng Long đã khẳng định có những dấu vết văn hóa Chăm ở Thăng Long xưa và Hà Nội nay. Điều này đã phản ánh sống động mối quan hệ Việt- Chăm lâu dài trong trong lịch sử. Cùng với những hiện vật phát hiện từ các cuộc khai quật khảo cổ học và hiện vật được chuyển giao, kế thừa từ các bảo tàng và nhiều nguồn khác nhau, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam đang trưng bày một bộ sưu tập hiện vật điêu khắc Chămpa khá độc đáo để du khách đến Hà Nội có thể chiêm ngưỡng những kiệt tác của dân tộc Chăm.
TẤN VỊNH
Thứ Năm, 24 tháng 2, 2011
Vài nhận định về chiếc áo dài Chăm (ao atah) của người Chăm An giang
Putra Champa
Từ thuở xa xưa, không biết từ khi nào mà những thiếu nữ Chăm đã biết làm đẹp bằng những bộ áo dài thật duyên , kính đáo. Áo dài Chăm rất khác so với áo dài của người Kinh. Điều dễ thấy nhất về sự khác biệt đó là áo dài chăm không xẻ tà, và khi mặc phải tròng từ trên xuống.
Chiếc áo dài nguyên bản của người Chăm Pandurangga
Trải qua những giai đoạn thâm trầm của lịch sử, dân tộc Chăm đã phải chia năm xẻ bảy, li tán tha hương đến khắp mọi nơi. Dần dà, sự ảnh hưởngcủa yếu tố bản địa ( nơi dừng chân mới của những đứa con chăm tha hương) đã tác động mạnh mẽ và làm thay đổi đi phần nào bản sắc thuần túy của họ vốn đã được hun đúc ngàn đời từ mảnh đất tổ tiên yêu thương.
Người Chăm An giang cũng bị rơi vào vòng xoáy hiển nhiên ấy. Sự ảnh hưởng đó bao trùm lên đời sống tâm linh và cả nét văn hóa ngày thường…nhưng ở đây tôi chỉ xin phân tích vấn đề về chiếc áo dài Chăm. Thật ra áo dài Chăm An giang và áo dài truyền thống nguyên bản của người Chăm Pandurangga ( Thuận Hải) có gì giống và khác?
Cũng như lịch sử của dân tộc Champa, chiếc áo dài của người Chăm An giang cũng thế .Không có( hoặc hiếm) một tư liệu cổ nào ghi chép hay hình vẽ để lại của chiếc áo dài xưa mà người Chăm An giang đã mặc. Nhưng chúng ta có thể dựa vào những tấm hình trắng đen chụp vào khoảng cuối tk19 đầu tk20, những tấm ảnh kĩ niệm này vốn được giữ kĩ ở những gia đình Chăm bề thế (vì chỉ có người giàu mới chụp ảnh để lại). Xét về hình dạng, áo dài Chăm An giang vào thời ấy không khác gì mấy so với áo dài của người Chăm Pandurangga ngày nay. Vẫn là phần trên( thân áo ) rộng có thể tròng vào khi mặc, cổ tròn, phần dưới hơi xòe ra để dễ việc đi lại. Xét nghĩ, kiểu cách áo dài này là kiểu áo dài mặc thường ngày, dễ dàng trong sinh hoạt , hơi khác một chút so với kiểu áo dài ôm của các thiếu nữ khi đi dự tiệc hay lễ hội. Kiểu áo dài này chúng ta vẫn còn bắt gặp ở những cụ già Chăm tại miền đất Pandurangga ngày nay.
Áo dài Chăm An giang xưa(trái) và áo dài trong sinh hoạt thường ngày của người Chăm ở Pandurangga(phải) ngày nay
Trãi qua nhiều thời kì, và nhất là thời kì mở cửa. Khi Việt Nam đón nhận những luồng văn hóa ngoại nhập. Xã hội Chăm cũng bị ảnh hưởng không kém. Khác xa so với xã hội người Việt vốn chuộng theo mốt Tây với những bộ váy đầm. Người Chăm An giang lại ấn tượng và bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi nền văn hóa Mã Lai (Malaysia/ Indonesia). Thật ra vùng Châu Đốc- An giang, mà cụ thể là làng Châu Giang vốn là nơi định cư từ trước đó của tộc người Jawa ( Mã Lai/ indo). chúng ta hãy thử đặt câu hỏi, khi người Chăm di cư từ Thuận Hải sang Campuchia và từ Campuchia sang đây., tại sao họ lại chọn Châu Giang làm nơi dừng chân đầu tiên?. Vì vốn dĩ những nhóm Chăm này họ theo Islam và tộc người Jawa cũng theo tôn giáo giống như họ. Cộng thêm nét văn hóa Jawa và Chăm vốn có cùng nguồn gốc Nam Đảo ( Melayo-polinesian) nên có nhiều nét rất giống nhau. Vì thế họ mau chống cộng cư và lâu dần họ ảnh hưởng lẫn nhau tạo thành dòng giống Chăm mới mà trong đó, nét văn hóa Chăm là chủ đạo ( vì người Chăm vốn đông hơn ). Bước sang thời kì thuộc địa, thông thương qua lại giữa những quốc gia khác nhau đã trở nên dễ dàng nhờ có những phương tiện đi lại mới. Điều này đã tạo điều kiện nhiều hơn cho người Chăm một lần nữa được tiếp xúc với sắc dân Jawa (Malay/Indo). Và cũng từ đó chiếc áo dài Chăm An giang dần dần cải biến rất nhiều và dường như hoàn toàn giống bới Baju Kurung của người Mã lai. Baju kurung cũng có hình dạng như chiếc áo dài Chăm( vì vốn hai kiểu áo dài này có chung nguồn gốc Nam Đảo) không xẻ tà, tròng đầu, cổ tròn…nhưng ở cổ có nét xẻ sâu , thắt nút và nhiều mảnh ghép ở phần thân…
Áo dài Chăm biến đổi( trái) và Baju kurung của Malay( phải)
Sau năm 1975, tình hình đất nước đổi mới. Các xóm làng Chăm không còn sống “ẩn cư” bao bọc bởi những hàng rào xung quanh nữa. Họ dần dần mở cửa, gia lưu và tiếp thu nhiều cái mới từ cộng đồng người Việt vốn đã sống bao quanh họ từ mấy trăm năm nay. Chiếc áo dài Chăm một lần nữa lại bị biến tấu lai dần chiếc áo dài của người Việt. Chúng có cổ đứng, hàng nút từ cổ chéo sang eo, không tròng đầu, nhưng vẫn giữ được nét kín đáo Chăm đó là không xẻ tà ( hoặc chỉ xẻ một phần rất nhỏ để dễ đi lại). Dần dần sự tác động mạnh mẽ của những kiểu thời trang áo dài Việt, với tính chất ôm sát người làm lộ đường nét phụ nữ quá bắt mắc. Các cô gái Chăm ngày nay chạy theo trào lưu, thế là những chiếc áo dài Việt 100% ra đời và được ưa chuộng trong những buổi tiệc hay lễ hội. Cái còn lại được gọi là nét Chăm trong chiếc áo chỉ là chiếc váy( thay vì mặc quần).
Kiểu áo dài Chăm xẻ tà như áo dài người Kinh(trái) và Chiếc áo không xẻ tà nhưng lại có cổ đứng và hàng nút từ cổ sang eo(phải)
Tuy nhiên những kiểu áo dài chăm theo từng thời kì ấy vẫn tồn tại, tuy không chuuộng bằng áo dài “thời đại” ấy.
Thứ Năm, 17 tháng 2, 2011
Khăn "Khanh ma om": Vật bất lý thân của phụ nữ An Giang
Khăn "Khanh ma om" (còn gọi là khăn Ma-tơ-ra) của phụ nữ Chăm An Giang xuất phát từ các dân tộc theo đạo Hồi, nguyên mẫu là chiếc khăn hình vuông và dần dần biến tấu cho phù hợp với nhu cầu thẩm mỹ của các thời kỳ. Chiếc khăn "Khanh ma om" có chiều dài khoảng 1,5 – 1,6 m, chiều ngang 50 cm, thường được làm bằng voan, ren hoặc bất cứ loại vải gì. Khác với những người đạo Hồi Ả rập chuộng hai màu đen trắng, chiếc khăn của phụ nữ Chăm có đủ màu sắc, điểm xuyết bằng các hoa văn hình con sò, bông hoa… bằng chỉ thêu màu, kim tuyến hay cườm dọc theo mép khăn.
Chiếc khăn Ma-aom (nữ) và chiếc Kapiah( nam) của người Chăm Islam
Khăn "Khanh ma om" không chỉ để che nắng, mà đủ dài để quàng quanh cổ và vắt qua vai, vừa có thể che tóc, che cổ và một phần trước ngực, hầu như để tránh đi ánh mắt tò mò của những người khác giới.
Khi ở nhà, người phụ nữ Chăm thường đội những chiếc khăn đơn giản, ít màu sắc. Nhưng khi đi dự tiệc hay đám cưới, họ thường mang những chiếc khăn có màu sáng lộng lẫy. Khăn "Khanh ma om" là vật bất ly thân của phụ nữ Chăm An Giang; bất cứ ở đâu làm gì người phụ nữ cũng không bỏ chiếc khăn ấy ra được, trừ lúc ngủ; họ rất yêu và tự hào với chiếc khăn truyền thống của mình.
Khi ở nhà, người phụ nữ Chăm thường đội những chiếc khăn đơn giản, ít màu sắc. Nhưng khi đi dự tiệc hay đám cưới, họ thường mang những chiếc khăn có màu sáng lộng lẫy. Khăn "Khanh ma om" là vật bất ly thân của phụ nữ Chăm An Giang; bất cứ ở đâu làm gì người phụ nữ cũng không bỏ chiếc khăn ấy ra được, trừ lúc ngủ; họ rất yêu và tự hào với chiếc khăn truyền thống của mình.
Những hình ảnh về thiếu nữ Chăm Islam trong chiếc khăn Ma-aom
Thứ Tư, 16 tháng 2, 2011
Phải chăng có mối liên kết giữa tiểu bang Kelantan-Malaysia và Champa?
Trích đoạn trong bài viết “Kelantan ada kaitan Champa? “
Chuyển sang Việt ngữ: Putra Champa
Đây là một giả thuyết rất có sức thuyết phục vì khi dựa trên những chứng cứ hiện tại mà ta đang có, ta có thể đủ lập luận để chứng minh điều đó. Khi đến Kelantan, ta sẽ bắt gặp những tên gọi, những địa danh mang dấu ấn rất rõ ràng của Champa, như “Pengkalan Chepa” ( nơi đỗ/ điểm dừng chân của Champa), Kampung Chepa ( ngôi làng Champa), Gong Chepa ( con chim công Champa), và tên các thứ lụa là hay đồ vật trang sức như “tanjak Cepa” ( cầu thang “leo” Champa),” kain tenun Cepa” ( vải Champa),” sutera Cepa” ( tơ lụa Champa), “sanggul Cepa” và keris Cepa ( cây kiếm Champa). Ngôi thánh đường ở Kampung Laut, vốn là ngôi thánh đường Islam vào bật cổ xưa nhất của Malaysia , nhưng nó lại được xây dựng bởi người Champa, để thuận tiện cho việcdừng chân nghỉ ngơi và hành lễ của họ trong những chuyến hành trình đi buôn với xứ Demak ở quần đảo Jawa ( Indonesia ngày nay) vào khỏang đầu thế kỉ 16.
Và cũng xin nói thêm rằng khi ta xem kĩ phiến đá cổ được tìm thấy tại Pengkalan Kempas, tiểu bang Negari Sembilan. Đầu phiến đá được khắc bởi câu kinh “Bismillahi-rahma-nirahim”( Câu kinh khởi đầu trong kinh thánh Al-qu’an) bằng chữ Jawi nhưng những phần sau được khắc bởi thứ chữ được cho là chữ Pali hay Kawi, nhưng những nét chữ đó lại rất giống thứ chữ trong tư liệu hoàng gia Champa đang được cất giữ ở nước ta.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)